Các dấu hiệu và triệu chứng Bỏng

Các đặc tính của một vết bỏng phụ thuộc vào độ sâu của nó. Bỏng bề ngoài gây đau kéo dài hai hoặc ba ngày, sau đó bong tróc của da trong vài ngày tới. Cá nhân bị bỏng nặng hơn có thể chỉ ra sự khó chịu hay phàn nàn về những áp lực cảm giác hơn là đau. Bỏng toàn phần-độ dày có thể hoàn toàn không nhạy cảm với cảm ứng ánh sáng hoặc thủng. Trong khi bỏng bề mặt thường có màu đỏ, bỏng nặng có thể có màu hồng, màu trắng hoặc đen. bỏng quanh miệng hoặc bị cháy xém tóc bên trong mũi có thể chỉ ra rằng bỏng đường thở đã xảy ra, nhưng những phát hiện này là không điển hình. Dấu hiệu khác đáng lo ngại bao gồm: khó thở, khàn tiếng, và thở rít hoặc thở khò khè. Ngứa ngáy là triệu chứng phổ biến của bệnh nhân trong quá trình điều trị bỏng, xảy ra lên đến 90% ở người lớn và gần như tất cả trẻ em. Tê hoặc ngứa ran có thể tồn tại trong một thời gian dài sau khi bị bỏng điện. Bỏng cũng có thể tạo ra cảm xúc đau buồn, lo âu và ảnh hưởng đến tâm lý của người bệnh, cũng như người thân.

Các thời kỳ của bỏng

Đã có nhiều quan niệm về các thời kỳ của bệnh bỏng, người ta chia làm hai thời kỳ, ba thời kỳ, bốn thời kỳ, năm thời kỳ. Song chia bệnh bỏng làm bốn thời kỳ, được nhiều tác giả chú ý:

1. Thời kỳ thứ nhất: 2 -3 ngày đầu tiên sau bỏng. Đặc trưng là trạng thái sốc bỏng (burn shock)

2. Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ nhiễm độc, nhiễm khuẩn cấp (acute intoxication and infection): từ ngày thứ 4 - 45 - 60 sau bỏng. Đối với bỏng nông, đây là thời kỳ liền sẹo và khỏi bệnh. Đối với bỏng sâu đây là thời kỳ nhiễm độc, nhiễm trùng.

3. Thời kỳ thứ ba: đây là thời kỳ suy mòn bỏng (burn cachexia) (từ ngày thứ 45 - 60 trở đi), nếu không được điều trị và nuôi dưỡng tốt. Có thể chia làm  ba mức độ suy mòn bỏng: Nhẹ, vừa, nặng.

  • Nhẹ: tổ chức hạt phù nề, gầy sút khoảng 4–9 kg, hồng cầu 3,8 - 2.5 T/lít, huyết sắc tố tới 55 G/lít, hematocrit tới 29%, protein huyết tương 7,5 - 5,5 g%, tỉ lệ albumin huyết tương tới 38%.
  • Vừa: tổ chức hạt xuất huyết, gầy sút khoảng 10 – 19 kg, teo cơ, phù dưới da, có các vết loét dưới điểm tỳ, hồng cầu 3,1 - 2.7 T/lít, huyết sắc tố tới 40 G/lít, hematocrit tới 22%, protein huyết tương 6,8 - 4,0 g%, tỉ lệ albumin huyết tương tới 24%.
  • Nặng: vết thương bỏng không có mô hạt, có hoại tử thứ phát, gầy sút khoảng 20 – 40 kg, teo cơ,phù dưới da, các vết loét dưới điểm tỳ nhiều và tiến triển xấu, hồng cầu 3,6 - 1,0 T/lít, huyết sắc tố tới 29 G/lít, hematocrit tới 13%, protein huyết tương 5,2 g%, tỉ lệ albumin huyết tương tới 11%. Có rối loạn và suy sụp chức phận và teo các nội tạng và tuyến nội tiết, rối loạn tinh thần.

Suy mòn bỏng nhẹ có thể hồi phục nhanh nếu điều trị tốt. Suy mòn bỏng vừa có thể có tử vong do các biến chứng khác của bệnh bỏng. Suy mòn bỏng nặng có tỉ lệ tử vong khoảng 50 - 60 %.

4. Thời kỳ thứ tư: thời kỳ hồi phục của bệnh bỏng (Stage of recovery). Vết thương bỏng đã được phủ kín, liền sẹo. Các rối loạn chức phận của các nội tạng được phục hồi dần dần. Các rối loạn về chuyển hoá, dinh dưỡng cũng được trở về bình thường (thời kỳ này kéo dài từ 1 - 1,5 tháng).

Hiện nay người ta có thể chia bỏng chỉ làm ba thời kỳ, do bệnh nhân được nuôi dưỡng và điều trị tốt không còn thời kỳ suy mòn bỏng.